Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đaị của dân tộc cũng là “người cha, người bác , người anh” của bao gđ đất Việt. Khi bác mất đi mỗi người đều tiếc thương vô hạn và đau đớn khôn nguôi. Tất cả mọi người dân ai cũng muốn ra Hà Nội viếng lăng Bác. Viễn Phương- 1 người con của Nam Bộ cũng có ước muốn như vậy. Trông một lần ra thăm lăng bác, tác phẩm “viếng lăng Bác ” ra đời. Bài thơ được viết với tấm lòng thành kính biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi sót đau. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện rõ nét trong bài thơ sau:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
…….
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Dòng cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ được diễn tả theo trình tự của cuộc viếng lăng. Trong tư tưởng tác giả bác Hồ như đang sống như thể bác đang nhìn mọi người từ xa, nên tác giả thầm giới thiệu:
” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ chứa đựng một nỗi đau và tự hào. Tự hào ” con ở miền Nam”, miền Nam gian khổ và anh hùng, miền nam thành đồng của tổ quốc, miền nam vừa chiến thắng vẻ vang. Nhớ lúc sinh thời người cũng nghĩ đến miền Nam mog miền Nam được giải phóg. Nhà thơ Tố Hữu từg viết:
” Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mog Bác nỗi mog cha ”
Thế mà miền Nam ko được đón Bác vào thăm ngày vui đại thắg. Nay thì Bác đã ra đi nỗi đau mất Bác lấy j mà bù đắp? Cho nên ngay từ đầu giọng thơ nghe có vẻ sót tủi. Đến với bác dù ngay giữa lòng Hà Nội mà cảnh vật vẫn giản dị, thân thuộc như một làng quê nào vậy:
” Đã thấy trog sươg hàg tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứg thẳg hàg ”
Ko phải đền đài tráng lệ, uy nghi mà chỉ là hàng tre giản dị quen thuộc “hàg tre bát ngát “. Bát ngát của sươg và bát ngát của tre là nhữg nét mờ tỏ, đậm nhạt tạo nên vẻ đẹp lug linh như 1 bức tranh thủy mạc. Từ hình ảnh thực ấy, tác giả đã liên tưởng khái quát, nâg lên thành hình ảnh ẩn dụ “hàg tre xanh xanh VN” một biểu tượng của dân tộc. Hàng tre ấy bao quanh phẩm chất con người VN: nhũn nhẵn, thanh cao, kiên cườg, bất khuất,…. dù “bão táp mưa sa cũng đứg thẳg hàg”. Dấu hiệu đầu tiên nơi bác ở là 1 dấu hiệu VN vì Bác là con người VN đẹp nhất!
Nhà thơ hòa vào dòg người xếp hàng, chầm chậm bức đi, chân bước mà lòng nghĩ:
” Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Câu thơ kéo dài một nhịp theo dòng suy tưởng của tác giả. Mặt trời trên cao kia là của tự nhiên, nó đem đến ánh sáng và nguồn sống cho vạn vật. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời trong lăng rất đỏ: hình ảnh nhân hóa ấy chứa dựng bao niềm tôn kính, ngưỡng mộ đối với Bác. “Mặt trời trong lăng rất đỏ” là hình ảnh ẩn dụ biểu hiện sự kì vĩ về phẩm chất, tài năng đạo đức, về sự hi sinh to lớn của người đối với đất nước và dân tộc. Bác mãi là vầng mặt trời đỏ thắm soi sáng cho con người Việt Nam. Cũng như mặt trời bên kia thuộc về vĩnh cửu, Bác cũng sống mãi trong lòng dân tộc, sống mãi với non sông đất nước ta.
Không chỉ có một trái tim tác giả biết cảm nhận cái đẹp của Bác mà còn hàng triệu trái tim, hàng triệu con người ngày ngày đến lăng viếng Bác. Nhà thơ nói hộ con dân đất Việt: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Không khí thương nhớ bao trùm theo nhịp thơ chầm chậm, âm điệu trầm trầm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm. Nhưng ko phải là cuộc tưởng niệm bình thường mà ca ngợi vinh quang của Bác. Và tràng hoa tưởng niệm cũng ko phải bình thường mà nó được kết bằng hàng triệu tấm lòng dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Một hình ảnh hoán dụ kết hợp ẩn dụ vô cùng độc đáo, lấy một nét trong cuộc đời Bác Hồ ( bảy mươi chín tuổi) để chỉ Bác Hồ; con người ấy sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân và đem lại mùa xuân trường cửu cho dân tộc và đất nước. Quả thật Viễn Phương đã khéo léo chọn giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh thích hợp để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng bộ đối với Bác.
Ta lại theo bước chân nhà thơ vào trong lăng. Đây là giây phút thiêng liêng vì đã được nhìn thấy:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Với nỗi đau đớn, xúc động nghẹn ngào, nhà thơ không muốn chấp nhận sự thật rằng Bác đã mất mà tưởng tượng Bác chỉ “nằm trong giấc ngủ bình yên” sau một cuộc đời vất vả, hi sinh vì dân vì nước chưa hề được nghỉ ngơi. Giấc ngủ của Bác thật bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ “dịu hiền” được miêu tả như vần trăng. Con người tha thiết yêu trăng mà chưa bao giờ được bình yên để ngắm ấy bây giờ đã được yên nghỉ cùng trăng.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật lí trí nhắc nhở nhà thơ: Bác mất thật rồi! Cho nên cảm xúc dâng trào đã bật thành lời:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Ở đây có sự hòa quyện giữa hai cảm xúc về sự bất tử trường tồn của Bác, cảm xúc về nỗi đau và nỗi nhớ Bác khôn nguôi. Bác là “mãi mãi” như bầu trời xanh bất diệt, vĩnh viễn ở trên đầu và ở trong tâm tưởng của mỗi người, vĩnh viễn với non sông đất nước. Nhưng Bác mất thật rồi, ko còn thấy trong cuộc đời này nữa. Cái thiếu vắng ấy lấy gì mà bù đắp được? Tiếng “nhói” vút cao lên nói hộ ta bao nỗi đau đớnxót xa. Đó là niềm xót xa, làm rung cảm rất chân thật của bất cứ ai vào lăng viếng Bác.
Xót xa, lưu luyến mấy rồi cũng phải chia tay. Bác nằm lại với “giấc ngủ bình yên”, mỗi người lại phải chia xa:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Câu thơ như có gì tiếc nuối, nghẹn ngào, xót xa. Một tiếng “thương” một hình ảnh “trào nước mắt” là trọn vẹn tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Đó là niềm kính yêu, lòng kính trọng biết ơn đối với con người cao thượng và vĩ đại dành trọn cuộc đời mình cho dân cho nước. Đó là nỗi xót đau đến lặng người vì sẽ mãi mãi ko cong thấy Bác. Thương Bác nhưng ko thể rời xa rời sự nghiệp mà người đã để lại cho con cháu, đành phải giã biệt Bác. Chân bước ra đi mà lòng còn lưu luyến. Nỗi niềm đó còn được diễn đạt trong mấy câu thơ giàu hình ảnh:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tretrung hiếuchốn này”
Về cuối bài, nhịp điệu câu thơ trở nên dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: con chim dâng tiếng hót, bông hoa dâng mùi hương, cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Tất cả đều bên lăng, ở quanh lăng. Tất cả đều nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác.
Bài thơ đã được cố nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và trở thành bài hát được nhiều người thích. Sở dĩ như vậy bởi vì bài thơ đã giàu tính nhạc: giọng điệu thiết tha trầm lặng, trang nghiêm và thành kính; nhịp thơ chậm. Qua đó, tác giả đã bộc lộ cảm xúc tràn đầy, những tình cảm lớn lao thiêng liêng của mình và cũng là của nhân dân đối với Bác Hồ, đồng thời ca ngợi vinh quang của Bác. Tình cảm đối với Bác là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Với những giá trị đó, “Viếng lăng Bác” là một đóng góp quý báo vào kho tàng thơ ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc
Answers ( )
Bạn tham khảo bên dưới
” Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu là vầng thái dương”
Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đaị của dân tộc cũng là “người cha, người bác , người anh” của bao gđ đất Việt. Khi bác mất đi mỗi người đều tiếc thương vô hạn và đau đớn khôn nguôi. Tất cả mọi người dân ai cũng muốn ra Hà Nội viếng lăng Bác. Viễn Phương- 1 người con của Nam Bộ cũng có ước muốn như vậy. Trông một lần ra thăm lăng bác, tác phẩm “viếng lăng Bác ” ra đời. Bài thơ được viết với tấm lòng thành kính biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi sót đau. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện rõ nét trong bài thơ sau:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
…….
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Dòng cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ được diễn tả theo trình tự của cuộc viếng lăng. Trong tư tưởng tác giả bác Hồ như đang sống như thể bác đang nhìn mọi người từ xa, nên tác giả thầm giới thiệu:
” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ chứa đựng một nỗi đau và tự hào. Tự hào ” con ở miền Nam”, miền Nam gian khổ và anh hùng, miền nam thành đồng của tổ quốc, miền nam vừa chiến thắng vẻ vang. Nhớ lúc sinh thời người cũng nghĩ đến miền Nam mog miền Nam được giải phóg. Nhà thơ Tố Hữu từg viết:
” Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mog Bác nỗi mog cha ”
Thế mà miền Nam ko được đón Bác vào thăm ngày vui đại thắg. Nay thì Bác đã ra đi nỗi đau mất Bác lấy j mà bù đắp? Cho nên ngay từ đầu giọng thơ nghe có vẻ sót tủi. Đến với bác dù ngay giữa lòng Hà Nội mà cảnh vật vẫn giản dị, thân thuộc như một làng quê nào vậy:
” Đã thấy trog sươg hàg tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứg thẳg hàg ”
Ko phải đền đài tráng lệ, uy nghi mà chỉ là hàng tre giản dị quen thuộc “hàg tre bát ngát “. Bát ngát của sươg và bát ngát của tre là nhữg nét mờ tỏ, đậm nhạt tạo nên vẻ đẹp lug linh như 1 bức tranh thủy mạc. Từ hình ảnh thực ấy, tác giả đã liên tưởng khái quát, nâg lên thành hình ảnh ẩn dụ “hàg tre xanh xanh VN” một biểu tượng của dân tộc. Hàng tre ấy bao quanh phẩm chất con người VN: nhũn nhẵn, thanh cao, kiên cườg, bất khuất,…. dù “bão táp mưa sa cũng đứg thẳg hàg”. Dấu hiệu đầu tiên nơi bác ở là 1 dấu hiệu VN vì Bác là con người VN đẹp nhất!
Nhà thơ hòa vào dòg người xếp hàng, chầm chậm bức đi, chân bước mà lòng nghĩ:
” Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Câu thơ kéo dài một nhịp theo dòng suy tưởng của tác giả. Mặt trời trên cao kia là của tự nhiên, nó đem đến ánh sáng và nguồn sống cho vạn vật. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời trong lăng rất đỏ: hình ảnh nhân hóa ấy chứa dựng bao niềm tôn kính, ngưỡng mộ đối với Bác. “Mặt trời trong lăng rất đỏ” là hình ảnh ẩn dụ biểu hiện sự kì vĩ về phẩm chất, tài năng đạo đức, về sự hi sinh to lớn của người đối với đất nước và dân tộc. Bác mãi là vầng mặt trời đỏ thắm soi sáng cho con người Việt Nam. Cũng như mặt trời bên kia thuộc về vĩnh cửu, Bác cũng sống mãi trong lòng dân tộc, sống mãi với non sông đất nước ta.
Không chỉ có một trái tim tác giả biết cảm nhận cái đẹp của Bác mà còn hàng triệu trái tim, hàng triệu con người ngày ngày đến lăng viếng Bác. Nhà thơ nói hộ con dân đất Việt:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Không khí thương nhớ bao trùm theo nhịp thơ chầm chậm, âm điệu trầm trầm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm. Nhưng ko phải là cuộc tưởng niệm bình thường mà ca ngợi vinh quang của Bác. Và tràng hoa tưởng niệm cũng ko phải bình thường mà nó được kết bằng hàng triệu tấm lòng dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Một hình ảnh hoán dụ kết hợp ẩn dụ vô cùng độc đáo, lấy một nét trong cuộc đời Bác Hồ ( bảy mươi chín tuổi) để chỉ Bác Hồ; con người ấy sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân và đem lại mùa xuân trường cửu cho dân tộc và đất nước. Quả thật Viễn Phương đã khéo léo chọn giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh thích hợp để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng bộ đối với Bác.
Ta lại theo bước chân nhà thơ vào trong lăng. Đây là giây phút thiêng liêng vì đã được nhìn thấy:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Với nỗi đau đớn, xúc động nghẹn ngào, nhà thơ không muốn chấp nhận sự thật rằng Bác đã mất mà tưởng tượng Bác chỉ “nằm trong giấc ngủ bình yên” sau một cuộc đời vất vả, hi sinh vì dân vì nước chưa hề được nghỉ ngơi. Giấc ngủ của Bác thật bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ “dịu hiền” được miêu tả như vần trăng. Con người tha thiết yêu trăng mà chưa bao giờ được bình yên để ngắm ấy bây giờ đã được yên nghỉ cùng trăng.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật lí trí nhắc nhở nhà thơ: Bác mất thật rồi! Cho nên cảm xúc dâng trào đã bật thành lời:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Ở đây có sự hòa quyện giữa hai cảm xúc về sự bất tử trường tồn của Bác, cảm xúc về nỗi đau và nỗi nhớ Bác khôn nguôi. Bác là “mãi mãi” như bầu trời xanh bất diệt, vĩnh viễn ở trên đầu và ở trong tâm tưởng của mỗi người, vĩnh viễn với non sông đất nước. Nhưng Bác mất thật rồi, ko còn thấy trong cuộc đời này nữa. Cái thiếu vắng ấy lấy gì mà bù đắp được? Tiếng “nhói” vút cao lên nói hộ ta bao nỗi đau đớn xót xa. Đó là niềm xót xa, làm rung cảm rất chân thật của bất cứ ai vào lăng viếng Bác.
Xót xa, lưu luyến mấy rồi cũng phải chia tay. Bác nằm lại với “giấc ngủ bình yên”, mỗi người lại phải chia xa:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Câu thơ như có gì tiếc nuối, nghẹn ngào, xót xa. Một tiếng “thương” một hình ảnh “trào nước mắt” là trọn vẹn tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Đó là niềm kính yêu, lòng kính trọng biết ơn đối với con người cao thượng và vĩ đại dành trọn cuộc đời mình cho dân cho nước. Đó là nỗi xót đau đến lặng người vì sẽ mãi mãi ko cong thấy Bác. Thương Bác nhưng ko thể rời xa rời sự nghiệp mà người đã để lại cho con cháu, đành phải giã biệt Bác. Chân bước ra đi mà lòng còn lưu luyến. Nỗi niềm đó còn được diễn đạt trong mấy câu thơ giàu hình ảnh:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Về cuối bài, nhịp điệu câu thơ trở nên dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: con chim dâng tiếng hót, bông hoa dâng mùi hương, cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Tất cả đều bên lăng, ở quanh lăng. Tất cả đều nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác.
Bài thơ đã được cố nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và trở thành bài hát được nhiều người thích. Sở dĩ như vậy bởi vì bài thơ đã giàu tính nhạc: giọng điệu thiết tha trầm lặng, trang nghiêm và thành kính; nhịp thơ chậm. Qua đó, tác giả đã bộc lộ cảm xúc tràn đầy, những tình cảm lớn lao thiêng liêng của mình và cũng là của nhân dân đối với Bác Hồ, đồng thời ca ngợi vinh quang của Bác. Tình cảm đối với Bác là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Với những giá trị đó, “Viếng lăng Bác” là một đóng góp quý báo vào kho tàng thơ ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc