Môn Văn Lớp: 11 Phân tích bài thơ đây thôn vĩ dạ M.n giúp mình với ạ!

Question

Môn Văn Lớp: 11 Giúp em bài này với ạ: Phân tích bài thơ đây thôn vĩ dạ
M.n giúp mình với ạ! No copy trên mạng nha. Em xin cảm ơn mọi người ạ

in progress 0
Abigail 1 tháng 2022-04-02T10:54:40+00:00 2 Answers 0

Answers ( )

  1. Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao thơ mới, là chủ soái trường thơ loạn, là hiện tượng kì dị và ám ảnh nhất trong thơ ca hiện đại. “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài  thơ là tình yêu của nhà thơ dành cho Huế, đồng thời thể hiện khát vọng hạnh phúc của thi sĩ Hàn Mặc Tử.

    Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chất chứa biết bao băn khoăn day dứt. Phải chăng bức bưu thiếp xã giao của người con gái mang tên một loài hoa đã trở thành chất xúc tác mở ra cánh cửa tâm hồn của thi sĩ. Để rồi người thi sĩ ấy ngước nhìn ra thế giới ngoài kia:

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

    Câu thơ đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở trách móc, vừa giới thiệu chào mời. Câu hỏi đó là của ai? Đó không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy phải chăng đó chính là tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở câu thơ đầu, khác nào đặt một niềm thắc mắc, dằn vặt xuyên suốt cả thi phẩm. Để rồi ở tứ thơ nào, hình ảnh nào, dù đẹp đến đâu thì người đọc cũng chợt bâng khuâng nhận ra một nỗi nhớ, nỗi sầu ứ nghẹn bên trong.

    Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ:

    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    Phải chăng, ngày Hàn Mặc Tử từng đến thăm “quê” trong tiềm thức là một buổi sớm đẹp đến nao lòng. Bởi lẽ trong cùng một câu thơ, chữ “nắng” được lặp lại đến hai lần. Ánh nắng ấy rực rỡ đến độ đong đầy không gian, vương trên vạn vật, chảy tràn sánh vàng tựa mật. Ánh nắng ấy cũng ấm áp đến độ sưởi ấm, thắp lên chút ánh sáng nơi cõi lòng lạnh lẽo của nhà thơ.

    Giữa không gian đầy nắng ấy, thẳng tắp vươn lên những thân cau như nét bút muốn khuấy động cả khoảng trời trong trẻo. Trong khu vườn thôn dã, cau là loài cây cao nhất, đón nắng đầu tiên. Bởi vậy, nắng hàng cau là ánh nắng trong trẻo nhất, thanh tân nhất, thuần khiết nhất. Cây cau chia đốt thẳng, giống như thước đo tự nhiên cân đong mực nắng trong vườn. Mặt trời càng lên cao, mực nắng ấy càng dâng lên cho đến lúc phủ qua tán cau, cũng là bao trùm cả khu vườn bằng thứ sắc màu lấp lánh của nó.

    Nếu như các nhà thơ khác trong phong trào Thơ Mới thường miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp đượm buồn:

     “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

        Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”

    (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)

    Thì với Hàn Mặc Tử, ông lại vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy sức sống. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như mang âm hưởng của điệu Nam Ai, Nam Bình, của điệu hò trên sông Hương. “Vườn ai” không chỉ riêng một khu vườn cụ thể nào mà tựa như theo từng nhịp bước chân thi sĩ, hai bên đường đều là những mảnh vườn như thế. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra mà nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới cực tả được vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bừng lên. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

                                                 “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”      =>Bình luận, tiểu kết

    Người con gái xứ Huế thường gắn với tà áo dài tím mộng mơ, chiếc nón bài thơ “mang hình bóng quê hương”. Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu nữ ấy lại e ấp “che ngang” gương mặt sau “lá trúc”. Một nét vẽ rất đẹp họa ra vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Người xưa có thanh nữ vịn cành mẫu đơn, giai nhân tựa nhành lan, nay lại có “mặt chữ điền” ẩn hiện sau cành trúc, lá trúc.

    Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:

    “Gió theo lối gió mấy đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

    Câu thơ đầu tiên với cách ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió mây chia lìa đôi đường đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì gió thổi mây bay. Phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia cách.

    Nỗi buồn  từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương giang. Hay dòng nước buồn thiu mang trong mình một tâm trạng được phản vào từ nỗi niềm tâm trạng của thi nhân. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Hương giang không thể tự buồn mà phải chăng thi nhân đã bỏ buồn vào trong đó. Dòng sông lững lờ hay chính là dòng đời mệt mỏi cay đắng đang chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi niềm xa xăm.

    Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ được đẩy đi rất xa nhuốm màu ảo mộng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay.”

    Trăng là hình ảnh quen thuộc trở đi trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ điên không đơn giản là vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Đây được coi là hai câu thơ tuyệt bút của thi nhân kết tinh rực rỡ bút pháp lãng mạn tài hoa. Nếu “thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng thì “sông trăng” lại  như một nét vẽ thơ mộng chất chứa linh hồn cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả như lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

    “Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

       Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.”

    Hay:

    “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

    Đợi gió đông về để lả lơi.”

    Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, nơi “không có niềm trăng và ý nhạc” nên giờ đây, trăng đã trở thành nơi bám víu duy nhất- một tri âm, tri kỉ của nhà thơ. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao đến cháy bỏng. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào ba chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.

     Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã gióng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:

    “Một mai kia ở bên khe nước ngọc

    Với sao sương anh nằm chết như trăng

    Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc

                                                      Đến thương anh và rửa vết thương tâm.”          => Bình luận, tiểu kết.

     

    “Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, là nhịp đập của con tim”. Một trái tim Hàn Mặc Tử, một nỗi lòng dồn nén như được ông thổ lộ qua khổ thơ cuối. Cảnh Vĩ Dạ thôn vào buổi sáng sớm hay dòng sông Hương với con thuyền chở trăng đã không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại niềm bâng khuâng, tiếc nuối:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra”

    Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa còn là hình bóng của giai nhân xứ Huế. Điệp từ “khách đường xa” khiến nhịp thơ trở nên gấp gáp hơn, khiến lời thơ chất chứa biết bao mặc cảm chia li, xa cách.  Chữ “mơ” ở đầu câu gợi về niềm mong ước được trở về thăm Huế và cũng mơ người con gái xứ Huế sẽ chịu vượt đường sá xa xôi để gặp mình. Cũng trong niềm khao khát ấy thi nhân nhìn thấy dường như người con gái ấy trong tà áo trắng. Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra “ không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói mà chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà còn là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả một nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.

    Khổ thơ cuối khép lại bài thơ như một lời trách:

    “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà.”

    “Ở đây” là không gian nào? Là Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo mà ngày đêm thi sĩ đang phải chống chọi với căn bệnh ác quái? Hình ảnh “sương khói” gợi sự chia cách giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh. Đó phải chăng là sương khói của thời gian, của không gian hay cũng là của mối tình đơn phương vô vọng với mặc cảm chia lìa. Màn sương ấy ngăn cách thi nhân với thế giới bên ngoài, để rồi nhiều luics nhà thơ đã tự hỏi lòng mình:

    “Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa

    Trời ở trong đây chẳng có mùa

    Không có niềm trăng và ý nhạc

    Có nàng cung nữ nhớ thương vua”

    Và lời hỏi lòng ấy đã bật lên thành câu hỏi khép lại bài thơ. Câu hỏi như chất chứa biết bao khắc khoải, băn khoăn. Đại từ “ai”hướng đến cả hai đối tượng: liệu giai nhân xứ Huế có biết được tình cảm đậm đà mà Hàn Mặc Tử dành cho nàng hay không, liệu tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà như vậy hay không? Vì vậy, thi nhân rơi vào tuyệt vọng và hoài nghi. Tình ai trong câu thơ cuối còn nghĩa là tình đời, tình người. ai biết cuộc đời, tình đời còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu? Và cái tình kia chính là sợi dây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh, xa vời quá.

    =>Đánh giá

    KB: Theo dấu những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc như lạc trong cuộc hành trình từ thực tại đến mờ ảo, “vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” (Hoài Thanh). Dù thời gian đã trôi qua rất lâu song bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Bài thơ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ thi sĩ họ Hàn, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.

  2.     Trong làn thơ mới nước ta Hàn Mạc Tử nổi tiếng với những loại thơ điên loạn cùng hình ảnh hồn và trăng. Thế nhưng lại ít có ai biết rằng ngoài những điên loạn ấy Hàn Mạc Tử còn có những vần thơ trữ tình dịu dàng đằm thắm. Trong số những tác phẩm thơ trữ tình dịu dàng đằm thắm nổi bật lên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

       Ông sống trong cảnh cách ly với tất cả mọi người ở trại tuy hòa, chính vì thế mà ông chỉ có thơ làm bạn, khi ông bất ngờ nhận được bức thư của người con gái năm xưa tên Hoàng Thị Kim Cúc, chính bức thư ấy mang lại cảm xúc cho nhà thơ viết lên bài thơ này. Mở bài đầu thơ là một câu hỏi tu từ khiến cho câu thơ trở nên đa nghĩa.

    ”Sao anh không về chơi thôn Vĩ.”  Câu thơ vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ chứa chan bao yêu thương mong đợi. Vừa như một lời tư vấn của chính nhà thơ, ông khao khát được trở về thôn vỹ. Trong câu ”không về” mà không phải ”chưa về”, ”chơi” mà không phải ”thăm”, thôn vỹ trong tiềm thức của thi nhân vốn dĩ là nơi quê nhà, gần gũi, nơi nhà thơ về chơi chứ không phải thăm như một người khách. Nhưng để về chơi thôn vĩ là điều không thể, bởi ông đang phải sống cách ly, cái ông phải đối diện lúc này là lãnh cung của sự cô đơn, là cái chết, là khao khát đã rời xa. Vì thế về chơi thôn vỹ bằng đôi chân trần là điều không thể thành hiện thực. Khao khát của hàn mặc tử trở nên đau đáu, khắc khoải. Tuy nhiên câu hỏi từ từ này cũng chính là cái cớ làm sống dậy những kỉ niệm ngọt ngào trong lòng tác giả. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc là hình ảnh nắng tưới lên ngọn cau. Nắng mới là cái nắng đầu tiên trong ngày tinh khôi, trong trẻo. Thi nhân dường như đã theo cái nắng về với thôn vĩ một tâm trạng vui náo nức. Khu vườn hiện lên tràn đầy sức sống, màu sắc với hình ảnh mướt quá xanh mượt mà, óng ả, khiến cho màu xanh trở nên trong trẻo như ngọc. Khu vườn hiện lên với màu sắc lung linh của nắng, tràn đầy màu sắc, sức sống của cây, thế nhưng nó lại là vườn ai – khu vườn trong thế giới tâm tưởng. Nó chính là tượng trưng cho thế giới ngoài kia mà tác giả đang hướng vọng. Vì thế khoảng cách giữa thi nhân và thôn vỹ ngày càng bị đẩy ra xa. Khép lại khổ thơ là hình ảnh thôn vỹ thật duyên dáng: lá trúc che ngang mặt chữ điền, khuôn mặt bị che ngang bởi lá trúc gợi vẻ đẹp kín đáo, duyên dáng, e ấp, khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Vẻ đẹp của con người hài hòa với vẻ đẹp của thiên nhiên. Khổ 1 là bức tranh tuyệt đẹp về thôn vỹ vào lúc bình minh với ánh sáng chan hòa, sắc màu rực rỡ. Cảnh vật lại được lọc qua nỗi nhớ, soi qua tình yêu nên càng đẹp và say lòng người hơn. Thế nhưng thôn vỹ đẹp như mơ như mộng ấy vĩnh viễn chỉ là một hình ảnh xa xôi thuộc về tiềm thức. Lúc này thôn vỹ không còn là 1 địa danh cụ thể nữa mà nó biểu tượng cho thế giới ngoài kia ăm ắp sắc màu, sự sống mà nhà thơ luôn tưởng nhớ, khao khát được sống trọn cùng nó. Nhà thơ đã chiêm bái vẻ đẹp thanh khiết ấy qua lăng kính của sự mặc cảm, chia lìa và 1 tình yêu tuyệt vọng với nhân thế. Hàn mặc tử đã không thể trở về thôn vĩ bằng đôi chân trần, mà đã trở về bằng đôi cánh tâm tưởng của tình yêu tha thiết gắn bó với cuộc đời này. Đây chính là lòng ham sống của thi nhân.

         Nét bút của Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc đến với một vẻ đẹp khác của xứ Huế, thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm, đó là vẻ đẹp trong một đêm trăng mơ màng, huyền diệu. Nếu cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở ra tình yêu, thì ở đây tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông nước với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn, hư ảo. Bức tranh thiên nhiên không chỉ được miêu tả bằng thị giác mà còn được tô đậm bởi điểm nhìn tâm trạng. Vì thế cảnh dù đẹp nhưng vẫn buồn.

     ”gió theo lối gió mây đường mây

     dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Gió mây qua đôi mắt của hàn mặc tử gợi lên với sự tan tác, chia lìa đôi ngả. Tại sao hàn mặc tử lại có cái nhìn như vậy? Phải chăng xuất phát từ nỗi ám ảnh trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Dòng nước được nhân hóa mang tâm trạng của con người ”buồn thiu”. Dường như sự chia lìa của mây gió đã để lại nỗi buồn cho hương giang, và phải chăng dòng sông buồn bởi thi nhân đã bỏ buồn cho nó. Những bông hoa bắp ảm đạm như màu khói gợi nỗi buồn hiu hắt trong lòng người. Hai câu đầu của khổ thơ đã khắc họa btranh thnh mang đậm ấn tượng về sự chia lìa, tan tác, 1 nỗi buồn hiu hắt. Dường như thi nhân đang cảm thấy vạn vật đang rời bỏ mình mà đi , nên tâm trạng ông càng trở nên khắc khoải, đau đáu hơn.

              ”Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

                    Có chở trăng về kịp tối nay? ”.  Cảnh vật hiện lên quen thuộc với bến sông trăng, con thuyền chở trăng – hình ảnh thuộc về cõi nhân thế. Thi nhân đang mặc cảm mọi vật như đang rời bỏ mình, thì sự xhiện của trăng, thuyền, bến như một niềm hi vọng đối với thi nhân. Câu thơ hàm chứa một ước vọng trăng sẽ trở về để xoa dịu nỗi cô đơn, nỗi đau thân phận, để hàn mặc tử có cơ hội bám víu cuộc đời. Nhưng con thuyền ấy chỉ là ”thuyền ai”, quá xa vời. Vì thế thi nhân mới khắc khoải ”Có chở trăng về kịp tối nay?”. Hai từ ”có kịp” tạo nên ám ảnh thời gian, và hàm chứa mầm tuyệt vọng. Khổ thơ thứ hai đã khéo léo làm nổi bật khung cảnh xứ huế. Nhưng dưới con mắt đầy mặc cảm của thi nhân, cảnh vật đều hiện lên với sự chia lìa, đắm chìm trong cõi mộng. Câu thơ cuối cùng như lời kêu cứu, muốn tìm một chỗ nương nhờ hồn đau của mình.

        Bức tranh xứ Huế còn hiện lên mờ ảo trong hình ảnh của khách đường xa, sương khói mờ nhân ảnh:

                   “Mơ khách đường xa khách dường xa

                       Áo em trắng quá nhìn không ra

                      Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”.  Tác giả rời bỏ cõi thực để đắm chìm trong cõi mộng của mình. Có lẽ cõi thực chỉ toàn niềm đau nên con người mới tìm đến cõi mộng để nhận được sự sẻ chia, an ủi. Khách đường xa phải chăng là những con người thế giới ngoài kia, là người để lại cho hàn mặc tử nỗi nhớ, tình thương yêu. Câu thơ mang đậm tâm trạng buồn thương, tiếc nhớ của hàn mặc tử. Khách đường xa được cảm nhận rõ qua một bóng hình người con gái Huế thơ mộng, trong sắc áo trắng tinh khôi song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện trong sương khói khiến cho ”mờ nhân ảnh”, hình ảnh người con gái xhiện chỉ thoáng qua như một ảo ảnh. Hiện thực mờ ảo, nhạt nhòa càng lúc càng chìm vào cõi hư ảo, và thi nhân càng cảm nhận rõ nét khoảng cách xa xôi của tình yêu, tình đời, hạnh phúc. Sự hụt hẫng, chơi vơi đến cao độ, hàn mặc tử thốt lên ”Ai biết tình ai có đậm đà?”. Cũng phải khẳng định tình cảm mà hàn mặc tử dành cho cô gái là thủy chung, son sắt, sâu đậm. Tuy nhiên ”tình ai” ko chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa. Nó còn là tình đời, tình người, tình tri kỉ mà thi nhân luôn khao khát. Kết thúc bài thơ là câu hỏi tu từ, nhưng thực chất là mở ra 1 nỗi niềm, khao khát cháy bỏng về sự gắn bó với cuộc sống trần thế, với cõi nhân sinh tràn ngập sự sống.

        Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế tha thiết. Những chi tiết, hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ, bước nhảy về ý, lối tạo hình giàu nghệ thuật đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.

        Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện bằng tâm trạng tuyệt vọng khi hướng về thế giới ngoài kia của thi nhân, bthơ đã thể hiện lòng yêu đời, mến đời đến đau đớn, tuyệt vọng.

Leave an answer

20:2+1-4x3-12:4 = ? ( )